Thứ Năm, 28 tháng 9, 2017

Mua bán cổ phiếu chiều 26/9: VN-Index ngậm ngùi nhìn HNX-Index "nhảy múa"

Thị trường mua bán cổ phiếu chiều 26/9 mặc dù nhóm cổ phiếu ngân hàng hồi phục khá tích cực nhưng chưa đủ mạnh để giúp VN-Index lấy lại sắc xanh do dòng tiền yếu. Trong khi đó, sàn HNX lại khởi sắc với nhiều con sóng lớn.
Cũng giống phiên hôm qua, trong phiên giao dịch sáng nay, thị trường mua bán cổ phiếu tiếp tục mở cửa trong sắc xanh với sự dẫn dắt còn khá e dè của một vài mã lớn, tuy nhiên áp lực nhanh chóng gia tăng khiến VN-Index đảo chiều giảm điểm và gia tăng biên độ giảm về cuối phiên.
Bước vào phiên chiều, thị trường vẫn giao dịch khá ảm đạm với dòng tiền tham gia khá thận trọng. Sau khoảng 1 giờ đi ngang, áp lực bán có dấu hiệu hạ nhiệt cùng với sự hồi phục khá tích cực của dòng bank, giúp VN-Index thu hẹp đà giảm điểm và tiến sát về mốc tham chiếu.
Tuy nhiên, đà tăng của các cổ phiếu ngân hàng chưa đủ rộng trong khi lực bán bất ngờ gia tăng trong đợt khớp ATC, khiến VN-Index chưa đủ sức để “ngượng dậy” và tiếp tục lùi sâu hơn dưới mốc tham chiếu.
Đóng cửa, VN-Index giảm 1,93 điểm (-0,24%) xuống 803,93 điểm với tổng khối lượng giao dịch đạt 138,75 triệu đơn vị, giá trị 3.525,71 tỷ đồng, giảm 7,79% về lượng nhưng tăng 9,84% về giá trị so với phiên hôm qua.

Trái ngược với sàn HOSE, trên sàn HNX, lực cầu duy trì khá tốt giúp chỉ số sàn tiếp tục tăng tích cực trong suốt cả phiên chiều.
Kết phiên mua bán cổ phiếu chiều qua, HNX-Index tăng 0,57 điểm (+0,54%) lên 105,75 điểm với tổng khối lượng giao dịch đạt 72,73 triệu đơn vị, giá trị 646,83 tỷ đồng, tăng 30,22% về lượng và hơn 5% về giá trị so với phiên hôm qua. Giao dịch thỏa thuận có thêm hơn 11 triệu đơn vị, giá trị 131,92 tỷ đồng, trong đó riêng PVS thỏa thuận 3,68 triệu đơn vị, giá trị 62,14 tỷ đồng và SHB thỏa thuận hơn 6,84 triệu đơn vị, giá trị hơn 56 tỷ đồng.

Thứ Sáu, 22 tháng 9, 2017

Mua bán cổ phiếu phải có kĩ xảo

10 Kỹ xảo trong giao dịch chứng khoán

Việc mua bán cổ phiếu đôi lúc được xem là cuộc chơi của những “Tay to”, “Cá lớn” với việc tạo ra “giao dịch ảo” nhằm kéo nhà đầu tư nhỏ vào tròng để kiếm lợi nhuận ngắn hạn. Vì vậy, với tư cách là nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ, chúng ta cần phải minh mẫn trước những chiêu trò, những mánh khóe của tay to. Bằng việc cập nhật kiến thức cho bản thân, bạn có thể phát hiện và hành động cẩn trọng trước những chiêu trò đấy.
Dưới đây là 10 kỹ thuật mà “Tay to” hay dùng để tạo ảo giác về giao dịch nhằm đánh lừa nhà đầu tư nhỏ cả tin và thiếu kinh nghiệm.
1 - Bán cổ phiếu giá sàn tạo tâm lý hoảng loạn
2 – Mua cổ phiếu giá trần tạo tâm lý hưng phấn
3 - Bán chặn giá trên
4 - Mua chặn giá dưới
5 - "Rải đinh" che giá mua thật
6 - "Rải đinh" che giá bán thật
7 - "Rải đinh" để khớp mua giá thấp
8 - "Rải đinh" để khớp bán giá cao
9 - Đè sàn (Fl)
10 - Đẩy trần (Ce).
1/ Bán cổ phiếu giá sàn tạo tâm lý hoảng loạn :
Đây là cách mà “Tay to” thường sử dụng khi họ muốn mua bán cổ phiếu ở giá rẻ hơn so với giá thị trường. Họ sẽ chủ động bán cổ phiếu giá sàn ào ạt ở tài khoản A để tạo tâm lý hoảng loạn nơi các NĐT nhỏ.
Trước hiện tượng tranh bán, NĐT nhỏ thường suy luận rằng có thể công ty này có tin xấu nên người ta mới bán tháo cổ phiếu và nhao nhao bán ra theo giá sàn. Khi đó, NĐT lớn sẽ dùng tài khoản B ung dung mua lại số cổ phiếu do chính mình vừa đặt bán và thu mua thêm cổ phiếu của các NĐT khác bán ra ở giá rẻ. Khi NĐT lớn thấy lượng cổ phiếu cần mua đã mua đủ, họ sẽ dừng "diễn kịch" với thị trường Việt Nam có thể sử dụng cả 3 phiên GD và lưu ý đến khối lượng cổ phiếu đang lưu hành của Công ty đó.
2/ Mua cổ phiếu giá trần tạo tâm lý hưng phấn :
Đây gọi là “lùa bầy cừu vô trại”. Khi muốn bán được cổ phiếu ở giá cao, “Tay to” sử dụng tài khoản A đặt mua một Số Lượng lớn cổ phiếu ở giá trần, nhằm tạo tâm lý hưng phấn cho các NĐT khác.
Khi thấy một lượng lớn cổ phiếu được đặt mua giá trần, nhiều người cho rằng, chắc là công ty này có tin tốt, nên người ta mới dám mua cao như thế và cũng đặt mua ào ào theo giá trần. Khi đó, NĐT lớn sẽ dùng tài khoản B bán dần cổ phiếu ra ở giá thấp, với số lượng bán lớn hơn số lượng đặt mua ở tài khoản A với thị trường Việt Nam có thể sử dụng cả 3 phiên GD và lưu ý đến khối lượng cổ phiếu đang lưu hành của công ty đó.
Ví dụ: NĐT lớn mua 30.000 PVX ở tài khoản A, bán 50.000 PVX ở tài khoản B, nhờ đó NĐT lớn sẽ bán được 20.000 PVX ở giá tốt. Vài hôm sau, Họ "ngừng diễn", giá PVX sẽ đứng hoặc đi xuống, ai mua theo bị thiệt thòi.
Thực tế, có những phiên GD xuất hiện 2 hiện tượng trên, nhưng lại không phải là kỹ xảo của NĐT lớn tạo ra mà do tác động của thông tin thật. Để phân biệt được khi nào TT  chịu tác động của kỹ xảo giao dịch, khi nào chịu tác động của thông tin thật, đòi hỏi NĐT phải có kinh nghiệm và bản lĩnh. Quan sát trên sàn giao dịch cho thấy, nhiều NĐT thiếu kinh nghiệm chơi chứng khoán ngắn hạn đã bị “thua liểng xiểng” chỉ vì không nhận biết được các kỹ xảo giao dịch.
Hai kỹ xảo nói trên cũng có thể bị hoá giải nếu một “Tay to” khác "biết bài" và đối lại cách mua, bán của NĐT lớn. Cụ thể, kỹ xảo bán giá sàn có thể hoá giải bằng cách đặt mua ngay giá trần sẽ khiến NĐT lớn bán cổ phiếu giá sàn bị mua mất ngay số cổ phiếu không muốn bán. Kỹ xảo mua giá trần cũng sẽ bị hoá giải nếu có “tay to” khác bán ngay cổ phiếu giá sàn, trường hợp này NĐT lớn đặt mua giá trần sẽ phải mua ngay số cổ phiếu không mong muốn.
3/ Bán chặn giá trên :
Kỹ xảo này cũng nhằm mục đích mua rẻ, nhưng nhẹ tay hơn kỹ xảo 1. “Tay to” muốn mua cổ phiếu giá rẻ, nhưng hoàn cảnh thị trường không cho phép thực hiện kỹ xảo 1, sẽ bán ra số lượng cổ phiếu rất lớn tại một mức giá ở tài khoản A ngay từ đầu giờ ở giá tham chiếu chẳng hạn.
Trong khi ở tài khoản B, họ chỉ đặt mua cổ phiếu với lượng vừa phải và đặt giá dưới tham chiếu. Như vậy NĐT nhỏ muốn bán phải tranh bán dưới giá tham chiếu và số cổ phiếu bán dưới giá tham chiếu này sẽ dễ dàng "sa bẫy" của “Tay to”. Khi đạt yêu cầu, họ có thể ung dung hũy lệnh bán trên – giá cổ phiếu tăng.
4/ Mua chặn giá dưới :
Kỹ xảo này nhằm bán được giá cao, song nhẹ tay hơn kỹ xảo 2. Ngay từ đầu giờ giao dịch, NĐT lớn đặt mua số lượng lớn cổ phiếu ở mức giá nào đó (ví dụ giá tham chiếu) tại tài khoản A và đặt bán số lượng nhỏ ở giá cao hơn giá trên tại tài khoản B. Thấy lượng cung ít quá so với lượng cầu, những NĐT nhỏ lao vào đặt mua giá cao để mua bằng được sẽ bị "mắc bẫy" vì ở một tài khoản khác, NĐT lớn đã trực sẵn lệnh bán lượng lớn cổ phiếu với giá cao.
Các kỹ xảo 1, 2, 3, 4 nói trên làm môi trường giao dịch cổ phiếu mất đi sự lành mạnh và NĐT nhỏ là người chịu thiệt thòi nhất. Khi đạt yêu cầu , “tay to” có thể ung dung hũy lệnh mua bán trên.
5/ "Rải đinh" che giá mua thật :
Vì bảng điện tử chỉ cho phép hiện 3 mức giá mua cao nhất nên NĐT lớn hay nhỏ đều có thể dùng kỹ xảo này để mua được giá tốt nếu không muốn mua trần: Đặt 3 lệnh ở 3 mức giá cao nhất, mỗi lệnh chỉ mua 1 lô, ví dụ 1 lô mua tại giá 35.000, 1 lô mua giá 34.900 và 1 lô mua giá 34.800. Khi đó toàn bộ các lệnh mua khác bị che khuất. Phía sau những thông số giả trên bảng điện là cuộc đấu trí thú vị giữa các NĐT. Có khi phần thắng lại thuộc về người không chủ động "rải đinh". NĐT nước ngoài kinh doanh trên TT Việt Nam cũng học được cách "rải đinh", song họ có tiềm lực tài chính mạnh, nên thường "rải đinh" to như mua 100 lô tại giá 27.000; 100 lô tại 26.900 và 100 lô tại 26.800.
6/ "Rải đinh" che giá bán thật :
Ngược lại với "rải đinh" mua, cách "rải đinh" bán được thực hiện như sau: NĐT đặt bán ở 3 mức giá thấp nhất, ví dụ bán 1 lô giá 32.200, 1 lô giá 32.300, 1 lô 32.400 khiến các lệnh bán khác bị che lấp hoàn toàn. NĐT lớn hay nhỏ đều có thể dùng kỹ xảo này để bán được giá tốt, nếu không muốn bán giá sàn. Khi gặp kỹ xảo "rải đinh", NĐT nên để ý giá khớp dự kiến. Nếu muốn mua, nên đặt trên giá khớp dự kiến một chút là có thể mua được. Nếu muốn bán, nên đặt giá bán dưới giá khớp dự kiến một chút là có thể bán được.
Tuy nhiên, khi có NĐT nào đó hứng lên đặt mua cổ phiếu ngay giá trần hoặc bán cổ phiếu ngay giá sàn thì kỹ xảo 5 và 6 hoàn toàn mất tác dụng.
7/ "Rải đinh" để khớp mua giá thấp:
Kỹ xảo này rất có tác dụng khi TT  không "nóng”. Kỹ xảo này có đặc điểm là không đặt mua tất cả lượng cổ phiếu muốn mua ở một mức giá, mà rải ra vài mức giá. Đây là sự lợi dụng nguyên tắc so sánh các sổ lệnh để khớp lệnh ở mức giá gần nhất. Ví dụ, bên bán có 5.000 cp bán ở giá sàn 24.900 ; nếu bên mua đặt 2.000 cp giá trần 27.500 thì thị trường sẽ khớp giá tham chiếu 26.200. Song nếu bên mua lại đặt mua 1.500 cp giá trần 27.500; 200 cổ phiếu ở giá 27.400; 200 cp ở giá 27.300 và 100 cổ phiếu ở giá sàn 24.900 thì người mua sẽ được mua giá sàn.
8/ "Rải đinh" để khớp bán giá cao:
Kỹ xảo này rất có tác dụng Khi TT không "nóng”. Có trường hợp cổ phiếu khớp giá 33.600, nhưng vẫn còn dư mua tại giá 44.100. Trong trường hợp này, nếu người bán tinh ý thực hiện "rải đinh" ở giá bán 44.100 thì cổ phiếu đó sẽ chuyển sang khớp tại giá 44.100. Người bán sẽ bán được cổ phiếu với giá cao hơn 500đ so với cách không dùng kỹ xảo. Do đó, khi muốn bán cổ phiếu, nên quan sát đặt nhiều mức giá để khớp được giá tốt nhất.
Kỹ xảo 7 và 8 đòi hỏi NĐT phải nhanh mắt và có trí nhớ tốt để "rải đinh" chuẩn xác. Các kỹ xảo 5, 6, 7, 8 nhằm giúp “tay to” mua, bán cổ phiếu theo giá tốt nhất và không gây hại cho môi trường đầu tư.
9/ Đè sàn (Fl):
Kỹ xảo này rất có tác dụng khi TT  không "nóng”. Ngay đầu phiên giao dịch khớp lệnh định kỳ (P1-P3), nếu mà “Tay to” muốn mua chưa thể hiện lệnh mua nhưng bên bán đã tung lệnh ATO hoặc ATC thì họ đưa ra 1 lệnh mua giá sàn và ở tài khoản khác đặt mua với lệnh ATO – ATC khi sắp kết thúc phiên giao dịch này. Nếu không có lệnh mua nào khác hoặc có lệnh mua khác nhưng khối lượng nhỏ hơn khối lượng bán ATO, ATC trên kia thì cỏ phiếu sẽ khớp lệnh ở giá sàn.
10/ Đẩy trần(Ce):
Kỹ xảo áp dụng khi TT không "nóng”. Ngược lại với kỹ xảo đè sàn, ngay đầu phiên giao dịch khớp lệnh định kỳ (P1-P3), nếu mà “Tay to” muốn bán chưa thể hiện lệnh bán nhưng bên mua đã tung lệnh ATO hoặc ATC thì họ đưa ra 1 lệnh bán giá trần và ở tài khoản khác đặt bán với lệnh ATO – ATC khi sắp kết thúc phiên giao dịch này. Nếu không có lệnh bán nào khác hoặc có lệnh bán khác nhưng khối lượng nhỏ hơn khối lượng mua ATO, ATC trên kia thì Ck sẽ khớp lệnh ở giá trần.
xem thêm : mua bán cổ phiếu

Thứ Năm, 21 tháng 9, 2017

Cổ phiếu OTC là gì?

Cổ phiếu OTC là gì?

OTC (Over the counter) là một loại cổ phiếu đã được phát hành tại các trung tâm giao dịch chứng khoán nhưng chưa niêm yết giá hay nói cách khác, giá cả của OTC không nhất thiết phải công bố rộng rãi cho công chúng.


Bởi vậy tính thanh khoản của các loại cổ phiếu OTC thường thấp hơn so với thị trường giao dịch tập trung, lợi nhuận mà các loại cổ phiếu này mang lại tương đối cao nhưng cũng chứa đựng  nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư.

Thị trường OTC là gì?

Thị trường mua ban OTC hay thị trường phi tập trung là một loại hình thị trường được xây dựng và tổ chức không dựa trên một sàn giao dịch cố định mà nó có  thể là bất cứ nơi nào có sự xuất hiện giữa người mua và người bán khi họ có nhu cầu giao dịch.
Nó vận hành theo cơ chế chào giá, sử dụng phương tiện giao dịch là điện thoại và Internet thông qua các thiết bị đầu cuối với nhau thay vì chỉ xảy ra tại các quầy giao dịch của các ngân hàng như trước kia.

Phân loại cổ phiếu OTC

a. Cổ phiếu ưu đãi (tiếng anh là Preference share)

Để có thể hiểu và nắm rõ hơn cổ phiếu OTC là gì, chúng ta cũng phải nắm được các dạng của nó. Cổ phiếu loại này thường được bán cho nhân viên trong nội bộ công ty phát hành chứng khoán trước khi chính thức đưa lên sàn chứng khoán.
Thông thường, giá bán của cổ phiếu ưu đãi thường rẻ hơn 40% so với giá trị thực, sau khoảng 3 năm thì người nắm giữ có thể sang tên, chuyển nhượng cho người khác hoặc đựơc công ty mua lại.
Cổ phiếu ưu đãi còn được gọi là cổ phiếu hạn chế chuyển nhượng. Khi người mua là nhân viên công ty sau khi mua cổ phiếu sẽ được cấp sổ và đứng tên nắm giữ của mình, nếu nhân viên đó muốn chuyển nhượng hay bán cho người khác thì người bán sẽ làm cách thủ thục chyển nhượng sang tên cho người mua bằng giấy viết tay chuyển nhượng.
Khi đã đảm bảo các yêu cầu chuyển nhượng thì công ty sẽ tiến hành hoàn tất thủ tục.
Tuy nhiên, thông thường thì cổ phiếu ưu đãi thường được đầu tư lâu dài chứ không sử dụng trong ngắn hạn bởi lợi nhuận đem lại khi đầu tư dài hạn thường sẽ khá cao.

 b. Cổ phiếu ủy thác

Không phải tất cả các công ty khi lần đầu phát hành chứng khoán đều am hiểu về vấn đề này nên thường họ sẽ nhờ các công ty chứng khoán thay mặt họ phát hành chứng khoán. Lợi ích của việc này là giúp các công ty không phải tự mình đi đấu gí, hạn chế bị hớ khi đấu giá hay đấu giá quá cao làm mất đi các cơ hội huy động vốn từ thị trường. Thường thì số lượng nhà đầu tư ủy thác cho bên thứ 3 rất nhiều, sau khi đấu giá xong thì phần chứng khoán này sẽ được chia lại theo những tỉ lệ quy định trước đó với chi phí ủy thác từ 1 – 2%

c.  Cổ phiếu trực tiếp

Hay còn gọi là cổ phiếu tự do, là loại cổ phiếu đối ngược lại với cổ phiếu ủy thác hay chính các nhà đầu tư sẽ tự mình  phát hành chứng khoán, đấu giá với ưu điểm là giá cổ phiếu thường cao hơn so với cổ phiếu ủy thác, tính thanh khoản cao cũng như giao dịch dễ dàng, hạn chế các khoản phí phát sinh do quá trình ủy thác gây ra.
Xem thêm: Mua ban OTC

Thứ Tư, 20 tháng 9, 2017

Mua ban OTC - 0983.443.669

Mua ban OTC - 0983.443.669

OTC (Over the counter) là một loại cổ phiếu đã được phát hành tại các trung tâm giao dịch chứng khoán nhưng chưa niêm yết giá hay nói cách khác, giá cổ phiếu OTC không nhất thiết phải công bố rộng rãi cho công chúng.
Tính thanh khoản của các loại chứng khoán trên thị trường cổ phiếu OTC thường thấp hơn thị trường giao dịch tập trung, chứa đựng nhiều rủi ro hơn và không thể không có các Broker. Để giải quyết những vấn đề đó chúng tôi cho ra đời trang thương mại điện tử http://muabanotc.com/ với mục đích kết nối trực tiếp những khách hàng có nhu cầu mua hoặc bán cổ phiếu trên OTC.
Có một điều cơ bản trên thị trường chứng khoán: Bạn chỉ đúng khi bạn kiếm được tiền và bạn sai khi bạn mất tiền.Tìm ra lý do vì sao bạn kiếm được tiền và vì sao bạn mất tiền chính là cách để bạn “ở lại” lâu dài trên thị trường chứng khoán.

Mua ban OTC mong muốn là nơi chia sẻ kinh nghiệm đầu tư chứng khoán, cách thức giao dịch cổ phiếu đồng thời cung cấp kiến thức tổng hợp về chứng khoán cho Nhà đầu tư.
– Hiện nay Website đang tập trung vào định hướng là cổng thông tin mua/ bán cổ phiếu OTC, nhằm phục vụ nhu cầu mua bán của khách hàng.
– Với mục tiêu tiến tới trở thành cổng thông tin, Sàn đăng tin mua bán cổ phiếu OTC, hàng đầu Việt Nam. Website của Mua ban OTC có giao diện thân thiện, chức năng hiện đại, tính năng khả mở cao do đó giúp doanh nghiệp, nhà đầu tư nhanh chóng tiếp cận thông tin mua bán cổ phiếu và thông tin các doanh nghiệp trên sàn OTC, – Làm cầu nối, liên kết các giao dịch mua bán của doanh nghiệp cũng như của các nhà đầu tư cá nhân trên sàn OTC.

Tại Sao Lại Lựa Chọn Chúng Tôi ?

+ Tài sản quý giá nhất góp phần tạo nên uy tín và hình ảnh của chúng tôi chính là nguồn nhân lực. Với đội ngũ chuyên viên trẻ, năng động, nhạy bén trong kinh doanh, được đào tạo tại các trường đại học danh tiếng trong và ngoài nước, được đào tạo và bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới thường xuyên….
+ Chúng tôi luôn đem đến cho khách hàng sự tin cậy bởi hàng loạt các dịch vụ tư vấn bài bản, sáng tạo và chuyên nghiệp. Kịp thời đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.
+ Toàn bộ hoạt động của chúng tôi được xây dựng và vận hành trên cơ sở một nền công nghệ thông tin hiện đại, được thiết kế như một hệ thống mở cho nên không những có thể đáp ứng được nhu cầu giao dịch, vấn tin, tư vấn cho nhà đầu tư, quản lý nội bộ công ty trong giai đoạn hiện tại mà còn có thể được phát triển, hoàn thiện và tích hợp với các hệ thống khác khi có sự thay đổi, nâng cấp trong hệ thống giao dịch và công bố thông tin của Sở Giao dịch chứng khoán trong tương lai.

Chúc các Nhà đầu tư thành công !


Mọi thông tin vui lòng liên hệ :

Mua ban OTC miễn phí
Hotline: 0983.443.669
Email: muabanotc9@gmail.com.

MUA BAN OTC – DÒNG TIỀN DỒI DÀO CHẢY VÀO CÁC QUỸ

Nhiều nhà đầu tư cả trong và ngoài nước đang gửi gắm đồng vốn vào các quỹ đầu tư hoạt động hiệu quả trên thị trường Mua ban OTC.
Năm nay, thị trường Mua ban OTC có diễn biến khả quan, nhà đầu tư nước ngoài liên tục có động thái mua ròng. Bên cạnh đó, số lượng nhà đầu tư nước ngoài mở tài khoản giao dịch chứng khoán gia tăng, dòng tiền đổ vào các quỹ đầu tư cũng gia tăng.
Ghi nhận tại Công ty Chứng khoán Maybank Kim Eng (MBKE), số lượng tài khoản nhà đầu tư nước ngoài tại MBKE từ đầu năm đến nay tăng 33% so với cùng kỳ năm 2016 và là tỷ lệ tăng cao nhất so với cùng kỳ tất cả các năm trước.
Trên phương diện gây quỹ, Vina-Capital đang có một năm hoạt động khá ấn tượng. Với các quỹ dành cho nhà đầu tư nước ngoài, VinaCapital Vietnam Opportunity Fund (VOF) là quỹ dạng đóng nên không gọi thêm vốn mới, nhưng các quỹ khác đang có nhiều nhà đầu tư mới tham gia. Chẳng hạn, quỹ mở Forum One – VCG Partners Vietnam (VVF) liên tục thu hút được dòng vốn mới, giá trị tài sản quản lý (AUM) dần tiến đến con số 100 triệu USD.
Hiện nay, nhiều chủ doanh nghiệp và những người giàu có không có thời gian để tự đầu tư, nhưng có nhu cầu sinh lợi trên khối tài sản của mình, đang tìm kiếm trải nghiệm đầu tư với một tổ chức chuyên nghiệp và uy tín. Do vậy, không chỉ dòng vốn đổ vào quỹ mở, SSIAM cũng nhận được dòng vốn tích cực đối với dịch vụ quản lý danh mục đầu tư riêng cho từng khách hàng từ các nhà đầu tư cá nhân trong nước có giá trị tài sản lớn.
Tổng tài sản quản lý của 2 quỹ mở VOF (đầu tư cổ phiếu) và VFF (đầu tư trái phiếu) hiện tăng 10 lần so với thời điểm thành lập 5 năm trước và tăng 240% trong năm 2017. Bên cạnh đó, các tài khoản ủy thác đầu tư cũng thành công ấn tượng, với VFF tăng 500% so với đầu năm.

Thứ Bảy, 9 tháng 9, 2017

Mua bán cổ phiếu OTC quý IV

(ĐTCK) Không đặt ra định lượng cụ thể nhưng theo lãnh đạo Sở Giao dịch chứng khoán TP. HCM (HOSE), số lượng doanh nghiệp niêm yết mới sẽ tăng mạnh hơn vào quý IV/2017. Chuyển động niêm yết mới và đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM ghi nhận những tín hiệu tích cực.
Tin lên sàn khiến thị trường mua bán cổ phiếu ngân hàng sôi động
Sau sự kiện VPBank lên sàn, nhà đầu tư đang chờ đợi thêm nhiều cổ phiếu ngành ngân hàng sẽ lên niêm yết để tăng tính cạnh tranh trong khối, cũng như gia tăng thêm chất lượng hàng hóa đối với cổ phiếu lên sàn.
Sự chờ đợi này là có cơ sở khi việc “ép” các ngân hàng lần lượt lên sàn đã nằm trong kế hoạch của nhà quản lý. Tuy nhiên, khác với VPBank, nhiều ngân hàng lựa chon việc đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM một thời gian nhất định, như một bước đệm trước khi đưa cổ phiếu lên sàn niêm yết.

Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) sau nhiều lần trì hoãn kế hoạch lên sàn, cũng như băn khoăn lựa chọn giữa việc đưa cổ phiếu lên sàn niêm yết hay đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM, đã quyết định sẽ đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM ngay cuối tháng 9/2017. Ngân hàng này cũng vừa có văn bản xin ý kiến các cổ đông về việc giữ tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa ở mức 5%.
Trên thị trường mua bán cổ phiếu OTC, nhiều cổ phiếu ngân hàng có kế hoạch lên sàn từ nay đến cuối năm đã được săn đón với mức giá khá cao, ngang ngửa với các cổ phiếu Top đầu ngành trên sàn niêm yết.
Thị trường mua bán cổ phiếu sẽ sôi động hơn trong quý IV
Trong tháng 8/2017, HOSE nhận được một số hồ sơ xin niêm yết mới và chuyển niêm yết từ sàn UPCoM lên HOSE như Công ty cổ phần Đầu tư Thương mại Xuất nhập khẩu Việt Phát với mức vốn điều lệ 200 tỷ đồng, tương đương số cổ phiếu niêm yết 20 triệu cổ phiếu, Công ty cổ phần CMC xin niêm yết hơn 28 triệu cổ phần; Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Thủy sản Sài Gòn xin niêm yết 39,6 triệu cổ phần... Những doanh nghiệp này cũng dự kiến sẽ niêm yết trong quý IV/2017.
Thực tế, với tâm lý “kiêng tháng Ngâu”, không nhiều doanh nghiệp lựa chọn nộp hồ sơ và niêm yết trong nửa đầu tháng 9 và bản thân lãnh đạo các Sở cũng hiểu tâm lý của doanh nghiệp nên những hồ sơ chấp thuận niêm yết sẽ được “giải quyết” trước và sau “tháng Cô hồn”. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp lên sàn dự kiến sẽ tăng mạnh hơn từ nửa sau tháng 9.
Bà Trần Thị Anh Đào, Phó tổng giám đốc HOSE cho biết, số lượng doanh nghiệp niêm yết thường gia tăng ở giai đoạn cuối năm, đặc biệt là khi ý thức tuân thủ quy định pháp lý ngấm hơn vào lãnh đạo doanh nghiệp. Điều thuận lợi là diễn biến thị trường chứng khoán từ đầu năm đến nay khá sôi động, mang lại lợi ích thiết thực cho lãnh đạo nhiều doanh nghiệp niêm yết mới. Đây là yếu tố “kích thích” các doanh nghiệp đưa cổ phiếu giao dịch trên sàn.
Tại Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), nửa đầu năm 2017, Sở đã chấp thuận đăng ký giao dịch mới cho 161 doanh nghiệp trên thị trường UPCoM, tức tăng 242% so với cùng kỳ và đạt gần 90% kế hoạch năm 2017. Theo HNX, số lượng doanh nghiệp đăng ký giao dịch  dự kiến sẽ tiếp tục tăng mạnh trong nửa cuối năm và đặc biệt là quý cuối của năm vì nhà quản lý đã và sẽ thúc ép mạnh.
Chuyển động thực tế tại các doanh nghiệp trực thuộc các bộ, tổng công ty cũng cho thấy, quyết tâm đưa cổ phiếu lên sàn của các đơn vị đủ điều kiện là có thật.
Đơn cử, tại Bộ Xây dựng, tính đến thời điểm cuối tháng 8/2017 có 5 doanh nghiệp đang hoàn tất thủ tục, chờ niêm yết và giao dịch cổ phiếu trên sàn trong quý IV/2017 gồm Tổng công ty Xây dựng Bạch Đằng - CTCP,  Tổng công ty Cơ khí xây dựng - CTCP (COMA), Tổng Công ty Vật liệu Xây dựng số 1 (FiCO) – CTCP; Tổng Công ty Lắp máy Việt Nam (LILAMA) – CTCP và  Tổng công ty Đầu tư Nước và Môi trường Việt Nam – CTCP (VIWASEEN)
Ở góc độ cơ quan quản lý, ông Phạm Hồng Sơn, Phó chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước từng chia sẻ, chủ trương của cơ quan quản lý là luôn khuyến khích, vận động để các doanh nghiệp tự giác đăng ký niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán. Sau khi triển khai các bước này, nếu doanh nghiệp cố tình chậm trễ đưa cổ phiếu lên sàn thì UBCK mới buộc phải xử phạt.

Thứ Ba, 5 tháng 9, 2017

Mua ban OTC - Chất lượng công bố thông tin trên thị trường.

Để thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả, các nhà đầu tư cần được cung cấp thông tin đầy đủ để ra các quyết định phù hợp, đặc biệt đối với thị trường phi tập trung OTC. Tuy nhiên, thực tế thế giới và Việt Nam cho thấy, thông tin trên thị trường này thường ít minh bạch, chất lượng công bố thông tin chưa thể đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư. Bài viết đánh giá lại các nghiên cứu chất lượng công bố thông tin trên thị trường chứng khoán tại các quốc gia trên thế giới và tại Việt Nam, mở ra định hướng về nghiên cứu chất lượng công bố thông tin trên thị trường mua ban OTC thời gian tới.
Nghiên cứu về chất lượng công bố thông tin trên thị trường OTC
Công bố thông tin của công ty được coi là một trong những yếu tố cơ bản quan trọng nhất giúp quản trị tốt công ty (Healy và Palepu, 2001). Thông tin đầy đủ giúp giảm thiểu thông tin bất cân xứng giữa các chủ thể bên trong và bên ngoài công ty, cho phép các nhà đầu tư đánh giá được năng  lực công ty. Để thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả, các nhà đầu tư cần được cung cấp thông tin đầy đủ để ra các quyết định phù hợp.
Với thông tin được cung cấp, các nhà đầu tư có cơ sở để đánh giá hoạt động kinh doanh và quản lý của công ty; xác định được triển vọng, cơ hội, thách thức, điểm mạnh và điểm yếu của công ty. Nếu thông tin bất cân xứng (các bên tham gia vào giao dịch có thông tin không đầy đủ) có tác động tiêu cực tới hoạt động bình thường của thị trường tài chính (Frederic S. Mishkin, 2004).
Vấn đề thông tin bất cân xứng làm tăng chi phí huy động vốn của công ty, do nhà đầu tư sẽ yêu cầu một tỷ suất sinh lời cao hơn đối với tính rủi ro do thiếu thông tin về dự án đầu tư và sự không tin tưởng vào hoạt động của ban giám đốc. Chỉ có một phương pháp duy nhất để giảm thiểu và giải quyết vấn đề thông tin bất cân xứng, đó là công bố thông tin (Paul M healy, Krishna G Palepu, 2001).
Theo đó, công bố thông tin của công ty được hiểu là một quá trình truyền tải thông tin từ công ty tới các chủ thể bên ngoài có mối quan tâm đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Các chủ thể tiếp nhận thông tin bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước, các đối tác kinh doanh như các nhà cung cấp, các tổ chức tài chính liên quan, các nhà đầu tư, các nhà phân tích tài chính chuyên nghiệp, các chuyên gia tư vấn và công nhân viên của công ty.
Trong đó, 2 chủ thể sử dụng thông tin công bố quan trọng nhất là các nhà đầu tư và các nhà phân tích tài chính chuyên nghiệp. Hoạt động công bố thông tin cũng đem lại lợi ích cho công ty phát hành bằng việc thể hiện và thu hút sự chú ý của nhà đầu tư, từ đó cải thiện cơ chế quản lý nội bộ của công ty, giảm được tác động của thông tin bất cân xứng, hạn chế giao dịch nội bộ và sự thao túng giá (Zhang Xueying, 2010).
Trong thời gian qua, nghiên cứu về chất lượng công bố thông tin của tổ chức phát hành trên thị trường chứng khoán cũng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Có nhiều quan điểm về chất lượng công bố thông tin. Chất lượng được xác định dựa trên số lượng mục thông tin công ty cung cấp so với bộ thông tin yêu cầu của nhà đầu tư (Patel, Sandeep A. and Dallas, George S., 2002). Quan điểm này cũng tiếp tục được khẳng định trong các nghiên cứu khác (Patel, Sandeep, 2002; Patel, Sandeep and Amra Balic, 2003).
Beattie (2004) cũng đã đo lường chỉ tiêu này thông qua đánh giá nội dung diễn giải của báo cáo theo các đặc điểm là: Tỷ trọng lượng văn bản diễn giải và tỷ trọng lượng văn bản có minh chứng bằng bảng biểu, số liệu. Tính tin cậy được xác định là thông tin công bố phải khách quan và không được điều chỉnh theo chủ ý của chủ thể công bố thông tin.
Tính tin cậy được đo lường thông qua uy tín, thương hiệu, quy mô, thị phần và số năm kinh nghiệm của công ty kiểm toán độc lập. Do đó, chất lượng công bố thông tin sẽ không chỉ được đo lường đơn giản thông qua việc “xuất hiện” hay “không xuất hiện” mục thông tin công bố; mà quan trọng là thông tin đó có nội dung, có nghĩa và đáng tin cậy. Điều này phù hợp với yêu cầu về thông tin trên góc độ người sử dụng thông tin, mà cụ thể là nhà đầu tư.
Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này đó chính là chỉ tiêu đo lường tính tin cậy. Nếu đo lường tính tin cậy của thông tin công bố thông qua mức độ uy tín của các công ty kiểm toán độc lập thì khó có thể áp dụng tại các quốc gia chưa có một tổ chức hay một bộ tiêu chí chuyên về xếp hạng tín nhiệm để có thể so sánh hay đánh giá rõ ràng về mức độ tín nhiệm của các đơn vị kiểm toán.
Đồng thời, khi xem xét trên khía cạnh quản trị thông tin, hoạt động công bố thông tin có thể đáp ứng các thông tin theo yêu cầu; nhưng những thông tin này được công bố không đúng thời điểm, nhà đầu tư khó tiếp cận thông tin công bố thì hoạt động công bố thông tin cũng được đánh giá là không tốt.
Nghiên cứu của Omneya H. Abdelsalem (2007) về yếu tố thời gian của hoạt động công bố thông tin kiến nghị nên xem xét chỉ tiêu khoảng thời gian công ty đã sử dụng cho hoạt động công bố hơn là thời điểm công bố của các nhóm thông tin. Khi lượng thông tin công bố là khác nhau giữa các công ty trong một khoảng thời gian nhất định, thì đây là một tiêu chí tốt để có thể so sánh nỗ lực công bố thông tin giữa các công ty.
Tiêu chí đo lường này có nhược điểm là không có tính so sánh. Nếu các công ty có tần suất hoạt động khác nhau do đặc thù ngành nghề hay quy mô khác nhau, lượng thông tin trong từng thời kỳ có thể hoàn toàn khác nhau. Nếu sử dụng tiêu chí này để đo lường rộng rãi cho các công ty có đặc điểm ngành nghề hay quy mô khác nhau sẽ không hợp lý. Đồng thời, tại các thị trường chứng khoán đang phát triển, nhận thức của phần lớn các công ty niêm yết là hoàn thành nhiệm vụ công bố, không sẵn sàng chia sẻ thông tin, thì tiêu chí này khó có thể áp dụng được trong đánh giá.
Laivi Laidroo (2008) cho rằng, chất lượng công bố thông tin được đánh giá theo 6 tiêu chí là tính giàu thông tin, tính phù hợp, tính rõ ràng, tính đặc biệt, tần suất xuất hiện, và tính ngoài kỳ vọng. Tiêu chí tần suất công bố được sử dụng trong đánh giá chất lượng công bố thông tin sẽ không hợp lý, do đối tượng đánh giá là thông tin công bố tại một thời điểm nhất định. Men Rong (2008) và Muhamad Rusnah (2009) cho rằng, chất lượng thông tin thể hiện thông qua tính giàu thông tin của việc công bố và do đó phụ thuộc vào số lượng thông tin công bố.
Dựa trên danh mục thông tin cần công bố, tác giả đánh giá chất lượng thông tin thông qua sự xuất hiện hoặc không xuất hiện của thông tin cần công bố. Tuy nhiên, phương pháp cho điểm theo đầu mục thông tin chỉ đảm bảo rằng thông tin đó được công bố chứ không đảm bảo rằng là đầy đủ. Như vậy, nghiên cứu sẽ không phân biệt được các công ty nghiêm túc với thông tin được công bố đầy đủ với các công ty đối phó với luật định và chỉ công bố thông tin mang tính liệt kê.
Céline Michaĩlesco (2010) lại cho rằng, chất lượng công bố thông tin có thể đánh giá với 3 tiêu chí: Tính phù hợp; Tính tin cậy và tính rõ ràng - dễ hiểu. Tính phù hợp được định nghĩa là trong quá trình công bố thông tin, chủ thể công bố thông tin phải luôn chú trọng tới nhu cầu thông tin của người sử dụng thông tin để cung cấp thông tin phù hợp nhất.
Tiêu chí này thể hiện ý nghĩa của hoạt động công bố thông tin là công bố những thông tin mà người sử dụng cần. Tính rõ ràng dễ hiểu được đánh giá là khả năng người sử dụng thông tin có thể hiểu được nội dung trình bày thông tin công bố. Các thông tin công bố cần được trình bày có lời văn diễn giải và có thể có số liệu định lượng minh họa.
Thực tiễn tại Việt Nam
Thời gian qua, cơn sốt hàng trên thị trường chứng khoán tự do (OTC) đã hạ nhiệt hơn so với thời gian trước. Tuy vậy, những “món hàng” tốt vẫn được nhà đầu tư săn lùng do những thông tin truyền tai các doanh nghiệp sẽ sớm niêm yết trên sàn.
Nhiều doanh nghiệp được đánh giá tiềm năng lớn như Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (PLX); Công ty cổ phần Ô tô Trường Hải (THA), Tổng Công ty Dược Việt Nam (Vinapharm); Tổng Công ty máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM)... với kết quả kinh doanh khá ấn tượng trong năm 2016 như: PLX đạt mức lãi kỷ lục hơn 6.200 tỷ đồng, đạt 158% kế hoạch, ROE đạt trên 50%, hay như THA trong 6 tháng đầu năm 2016, đạt trên 3.709 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, trong đó lợi nhuận sau thuế của cổ đông công ty mẹ 3.682 tỷ đồng... cũng trở thành đích ngắm của các nhà đầu tư.
Tuy nhiên, tình trạng “khó lường” cổ phiếu trên thị trường mua ban OTC  cũng khiến các nhà đầu tư đau đầu do các thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh thường khá hạn chế. Thực tế thời gian qua cũng cho thấy, trên thị trường mua ban OTC, đặc biệt tại các thời điểm “sốt nóng” còn rất nhiều vụ việc nhà đầu tư bị mất tiền do thông tin thiếu minh bạch hoặc nhà đầu tư không tiếp cận được các nguồn tin để có quyết định đầu tư chính xác.
Bên cạnh đó, hiện nay các nghiên cứu ở trên chỉ tập trung đánh giá chất lượng công bố thông tin trên thị trường niêm yết mà chưa đề cập nhiều đến thị trường OTC. Ở Việt Nam, thị trường OTC đã được các cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán quan tâm, tạo điều kiện phát triển. Tuy nhiên, sau nhiều năm vận hành, thị trường mua ban OTC ở Việt Nam vẫn còn nhiều khiếm khuyết, đặc biệt là thông tin chưa minh bạch khiến cho thị trường này trở nên không thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư. Các công ty tham gia thị trường, khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch luôn ở mức thấp.
Thực tế ở Việt Nam có trên 90% các công ty là các công ty vừa và nhỏ, tương ứng với trên 500.000 công ty công ty vừa và nhỏ. Như vậy, nguồn cung tiềm năng trên thị trường OTC là rất lớn nhưng con số 289 công ty (HNX, 2015) đăng ký giao dịch trên thị trường OTC thực sự quá khiêm tốn. Ngoài ra, thị trường mua ban OTC ở Việt Nam có khối lượng giao dịch chỉ bằng 1,1% và giá trị giao dịch chỉ bằng 0,7% so với thị trường chứng khoán tập trung (HNX, 2015). Trong một nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Thủy (2014) về việc đánh giá chất lượng công bố thông tin của tổ chức phát hành trên thị trường OTC Việt Nam, kết quả đánh giá tính kịp thời 70%, tính chính xác 50%, tính đầy đủ 76%.
Tại Việt Nam, Nguyễn Đình Hùng (2010) cho rằng, chất lượng của thông tin công bố bao gồm sự kịp thời, sự thuận tiện, sự chính xác, đầy đủ và nhất quán. Trong khi đó, Ngô Thị Thu Giang (2014) đã đánh giá mức độ công bố thông tin của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam theo các tiêu chí: tính thông tin, tính rõ ràng dễ hiểu và tính cập nhật. Tính thông tin được đo lường bằng số lượng/mục thông tin xuất hiện hoặc không xuất hiện trong báo cáo công bố.
Tính rõ ràng dễ hiểu được đo lường được đánh giá là khả năng người sử dụng thông tin có thể hiểu được nội dung trình bày thông tin công bố. Các thông tin công bố cần được trình bày có lời văn diễn giải và có thể có số liệu định lượng minh họa. Tính cập nhật được đo lường bằng khoảng cách giữa thời gian công bố thông tin với thời gian cần công bố thông tin. Thông tin được đánh giá là cập nhật nếu ngày công bố thông tin xảy ra trước hoặc đúng thời điểm cần phải công bố thông tin theo quy định.
Như vậy, chất lượng công bố thông tin trên thị trường mua ban OTC Việt Nam là khoảng trống cho các nghiên cứu tiếp theo. Dựa trên các nghiên cứu trên thế giới và thực tế Việt Nam, tác giả cho rằng, đánh giá chất lượng công bố thông tin của tổ chức phát hành cần dựa trên các tiêu chí tính đầy đủ; tính phù hợp - dễ hiểu, tính tin cậy và tính kịp thời.
Đặc biệt, việc đánh giá về tiêu chí tính phù hợp - dễ hiểu sẽ sử dụng khảo sát các nhà đầu tư và chuyên gia phân tích tài chính về các mục thông tin công bố có đáp ứng nhu cầu của người sử dụng hay không. Nói cách khác, cần làm rõ ý nghĩa giá trị thông tin cung cấp chứ không chỉ mang tính hình thức như tiêu chí tính đầy đủ mà các nghiên cứu trước đây phân tích, đánh giá.